Wednesday, December 18, 2019

Quá trình hấp thu (hấp thụ)

Khái niệm

Hấp thụ là quá trình quan trọng để xử lý khí và được ứng dụng rất nhiều trong các công nghệ khác. Hấp thụ dựa trên cơ sở của quá trình truyền khối, nghĩa là có sự vận chuyển từ pha này vào pha khác. Phụ thuộc vào bản chất của sự tương tác giữa chất hấp thụ và chất bị hấp thụ trong pha khí, hấp thụ được chia làm hai loại: hấp thụ vật lý và hấp thụ hóa học. Hấp thụ vật lý: dựa trên sự hòa tan của cấu tử pha khí trong pha lỏng. Hấp thụ hóa học: có phản ứng hóa học giữa chất bị hấp thu và chất hấp thụ hoặc cấu tử trong pha lỏng. Quá trình hấp thụ tách hay bỏ một hay nhiều chất ô nhiễm ra khỏi dòng khí thải (pha khí) bằng cách xử lý với chất lỏng ( pha lỏng).Lúc này hỗn hợp khí được cho tiếp xúc với chất lỏng nhằm mục đích hòa tan có chọn lọc một hay nhiều cấu tử của hỗn hợp khí để tạo nên một dung dịch các cấu tử trong chất lỏng.
-  Khí được hấp thụ gọi là chất bị hấp thụ.
-  Chất lỏng dùng để hấp thụ gọi là dung môi (chất hấp thụ)
-  Khí không bị hấp thụ gọi là khí trơ.
Trong công nghiệp hóa chất, thực phẩm, quá trình hấp thu được dùng để:
-  Thu hồi các cấu tử quý trong pha khí
-  Làm sạch pha khí
-  Tách hổn hợp tạo thành các cấu tử riêng biệt
-  Tạo thành một dung dịch sản phẩm.
Nếu quá trình hấp thụ khí với mục đích của quá trình là tách các cấu tử hỗn hợp khí thì khi đó việc lựa chọn dung môi tốt phụ thuộc vào các yếu tố sau:
 - Độ hòa tan tốt: có tính chọn lọc có nghĩa là chỉ hòa tan cấu tử cần tách và hòa tan không đáng kể các cấu tử còn lại. Đây là điều kiện quan trọng nhất.
 - Độ nhớt của dung môi: càng bé thì trở lực quá trình càng nhỏ, tăng tốc độ hấp thu và có lợi cho quá trình chuyển khối.
 - Nhiệt dung riêng: bé sẽ tốn ít nhiệt khi hoàn nguyên dung môi.
 - Nhiệt độ sôi: khác xa với nhiệt độ sôi của chất hoà tan sẽ dễ tách các cấu tử ra khỏi dung môi.
 - Nhiệt độ đóng rắn: thấp để tránh tắc thiết bị, không tạo kết tủa, không độc và thu hồi các cấu tử hòa tan dễ dàng hơn.
- Ít bay hơi, rẻ tiền, dễ kiếm, không độc hại với người và không ăn mòn thiết bị.
Tuy nhiên, trong thực tế không có dung môi nào đạt được tất cả các chỉ tiêu đã nêu. Vì vậy, khi chọn dung môi ta phải dựa vào những điều kiện cụ thể của sản xuất.

Các loại tháp hấp thu

           Tháp đĩa
·        Tháp đĩa  có ống chảy chuyền
Tháp mâm chóp
Tháp đĩa thường cấu tạo gồm thân hình trụ  thẳng đứng, bên trong có đặt các tấm ngăn (đĩa) cách nhau một  khoảng nhất định. Trên mỗi đĩa hai pha chuyển động ngược hoặc chéo chiều:lỏng từ  trên xuống (hoặc đi ngang), khí đi từ  dưới lên hoặc xuyên qua chất lỏng chảy ngang;    đây tiếp xúc pha xảy ra theo từng bậc là đĩa.Tùy thuộc cấu tạo của đĩa chất lỏng trên đĩa có thể  là khuấy lý tưởng hay là dòng chảy qua. Trên đĩa có cấu tạo  đặc  biệt  để  lỏng  đi  từ  đĩa  trên  xuống  đĩa  dưới  theo  đường  riêng  gọi    ống  chảy chuyền, đĩa cuối cùng  ống chảy chuyền ngập sâu trong khối chất lỏng đáy tháp tạo thành van thủy lực ngăn không cho khí (hơi hay lỏng) đi theo ống lên đĩa trên.

Hình 1.1.Sơ đồ tháp mâm chóp
Pha khí (hơi hay lỏng) xuyên qua các lỗ, khe chóp, khe chóp, hay khe xupap sục  vào pha lỏng trên đĩa. Để  phân phối đều chất lỏng người ta dùng tấm ngăn điều chỉnh chiều cao mức chất lỏng trên đĩa.
+ Ưu điểm: Hiệu suất truyền khối cao, hoạt động ổn định, làm việc với chất lỏng bẩn, ít tiêu hao năng lượng.
+ Nhược điểm: cấu tạo hức tạp, trở lực lớn, nặng.
Tháp mâm lỗ
Tháp đĩa lưới hình trụ, bên trong có nhiều đĩa, có lỗ tròn, hoặc rãnh. Chất lỏng chảy từ trên xuống qua các ống chảy chuyền. Khi đi từ dưới lên qua các lỗ hoặc rãnh đĩa. Đĩa có thể lắp cân bằng hoặc xuyên một góc với độ dốc 1/45- 1/50.
+ Ưu điểm: chế tạo đơn giản, vệ sinh dễ dàng, trở lực ít hơn tháp chóp, ít tốn kim loại hơn tháp chóp.
+ Nhược điểm: yêu cầu lắp đặt cao, mâm lấp phải rất phẳng.

Hình 1.2. Nguyên lý hấp thu của mâm xuyên lỗ dùng gờ chảy tràn



Hình 1.3. mặt cắt ngang mâm xuyên lỗ (ống chảy chuyền)
·         
Tháp đĩa không có ống chảy chuyền


Hình 1.4. Tháp mâm không có ống chảy chuyền
Trong trường hợp này khí và lỏng cùng chảy qua  một  lỗ  trên  đĩa,    vậy  không    hiện tượng giảm chiều cao chất lỏng trên đĩa như trong  các  loại  tháp    ống  chảy  chuyền,  và tất cả bề mặt đĩa đều làm việc, nên hiệu quả của  đĩa  cao  hơn.    vậy  trong  những  năm gần đây loại tháp này được sử dụng rộng rãi.
Tháp đĩa không có ống chảy chuyền cũng có nhiều loại nhưng chủ yếu có hai loại: đĩa lỗ và đĩa rãnh. Đĩa lỗ được cấu tạo bởi các tấm ngăn    tấm  phẳng,  trên    nhiều  lỗ  tròn được  bố  trí  đều.  Lỗ    đường  kính  2-8mm phụ thuộc vào chất lỏng. Tháp đĩa rãnh là đĩa gồm nhiều thanh hoặc là nhiều ống ghép lại với nhau tạo thành các khe hở 3-4mm . Ngoài ra, đĩa còn có cấu tạo hình sống, trên có lỗ.
Các sống gần nhau hợp thành góc 900. Hơi đi từ dưới lên qua lỗ ở phần sống lồi, còn lỏng đi từ trên xuống qua phần sống lõm.
Tháp phun

Hình 1.5. Tháp phun
Loại này gồm thân và 1 ống vòi phun 2.  Những  hạt  chất  lỏng  sẻ  được  phun  ra  và tiếp  xúc  với  dòng  khí  đi  từ  dưới  lên    quá trình hấp thụ xảy ra. Loại thiết bị này không phù hợp với các loại khí khó hoà tan.
Ngoài ra còn có những loại hấp  thu cơ học. Chất lỏng bắn ra trong các phễu, ở đó khí sẻ được tiếp xúc với chất lỏng và có quá trình hấp thụ. Khí chuyển động qua thiết bị theo đường ngoằn ngoèo giữa các bậc. Chất lỏng chảy từ trên xuống và lấy ra ở đáy. Bộ phận bắn tung chất lỏng được gắn vào một trục quay, có tác dụng trì hoãn sự chảy của chất lỏng trong phễu, tạo khả năng tiếp xúc tốt với pha khí.

Hình 1.6. Thiết bị hấp thu cơ học dạng cánh khuấy
+ Ưu điểm:  Tháp hấp thụ  rỗng được thiết kế  để  dòng khí chuyển động theo tuyến đặc biệt và vòi phun đặt dọc theo chiều cao tháp có thể đạt hiệu quả hấp thụ rất cao.
+ Khuyết điểm: yêu cấu lấp đặt cao, mâm lấp phải rất phẳng.
                 Tháp đệm
Cấu tạo gồm: thân tháp rỗng bên trong đổ đầy đệm làm từ  vật liệu khác nhau (gỗ, nhựa, kim loại, gốm,..) với những hình dạng khác nhau (trụ, cầu, tấm, yên ngựa, lò xo,..); lưới đỡ đệm, ống dẫn khí và lỏng vào ra. Để phân phối đều lỏng lên khối đệm chứa trong  tháp, người ta dùng bộ phận phân phối dạng: lưới phân phối (lỏng đi trong ống – khí  ngoài ống; lỏng và khí đi trong cùng ống); màng phân phối, vòi phun hoa sen (dạng trụ,  bán cầu, khe); bánh xe quay (ống có lỗ, phun quay, ổ đỡ);...
 Các phần tử đệm được đặc trưng bằng: đường kính d, chiều cao h, bề dày δ. Đối với đệm trụ, h = d chứa được nhiều phần tử nhất trong 1 đơn vị thể tích.
   Khối đệm được đặc trưng bằng các kích thước: bề mặt riêng a (m2/m3); thể tích tự do    ε (m3/m3); đường kính tương đương d(tđ) = 4r(thủy lực) = 4.S/n = 4 ε/a; tiết diện tự do S (m2/m3).


Hình 1.7 Tháp đệm
Khi chọn đệm cần lưu ý: thấm ướt tốt chất lỏng; trở lực nhỏ, thể tích tự do và và tiết diện ngang lớn; có thể làm việc với tải trọng lớn của lỏng và khí khi ε và S lớn; khối lượng riêng nhỏ; phân phối đều lỏng; có tính chịu ăn mòn cao, rẻ tiền, dễ kiếm... Để làm việc với chất lỏng bẩn nên chọn đệm cầu có khối lượng riêng nhỏ.
+Ưu điểm: cấu tạo đơn giản; trở lực theo pha khí (hoạt động ở chế độ màng/quá độ) nhỏ.
+Nhược điểm: hoạt động kém ổn định, hiệu suất thấp; dễ bị sặc; khó tách nhiệt, khó thấm ướt.
+Ứng dụng:
- Dùng trong các trường hợp năng suất thấp: tháp hấp thụ khí, tháp chưng cất,...
- Dùng trong các hệ thống trở lực nhỏ (như hệ thống hút chân không,...).
      Tháp màng
Bề  mặt  tiếp  xúc  pha    bề  mặt  chất  lỏng  chảy  thành  màng  theo  bề  mặt  vật  rắn thường là thẳng đứng. Bề mặt vật rắn có thể là ống, tấm song song hoặc đệm tấm.
·        Tháp màng dạng ống:
Có cấu tạo tương tự thiết bị trao đổi nhiệt dạng ống chùm, gồm có ống tạo màng được giữ  bằng hai vĩ  ống    hai đầu,  khoảng  không  giữa  ống    vỏ  thiết  bị  để  tách  khi  cần thiết.  Chất  lỏng  chảy  thành  màng  theo  thành  ống  từ  trên xuống, chất khí (hơi) đi theo khoảng không gian trong màng chất lỏng từ dưới lên.
·        Tháp màng dạng tấm phẳng
Các tấm đệm đặt    dạng thẳng đứng được làm từ  những vật liệu khác nhau (kim loại, nhựa, vải căng treo trên khung...) đặt trong thân hình trụ. Để  đảm bảo thấm ướt  đều chất lỏng từ cả 2 phía tấm đệm ta dùng dụng cụ phân phối đặc biệt có cấu tạo răng cưa.
·      Tháp màng dạng ống khi lỏng và khí đi cùng chiều
Cũng có cấu tạo từ các ống cố định trên 2 vỉ, khí đi qua thân gồm các ống phân phối tương  ứng đặt đồng trục với  ống  tạo màng. Chất lỏng đi vào  ống tạo màng qua khe giữa 2  ống. Khi tốc độ  khí lớn sẽ  kéo theo chất lỏng từ  dưới lên chuyển động dưới dạng màng  theo  thành  ống  tạo  màng.  Khi  cần  tách  nhiệt    thể  cho  tác  nhân  lạnh  đi  vào khoảng không gian giữa vỏ    ống. Để  nâng cao hiệu suất người ta dùng thiết bị  nhiều bậc giống nhau.
-Thủy động lực trong thiết bị dạng màng:
+ Khi Re < 300 – chảy màng , bề mặt pha nhẵn trơn
+ Khi 300 < Re < 1600 – chảy màng bắt đầu có gợn sóng
+ Khi Re > 1600 – chảy rối
Khi có dòng khí chuyển  động ngược chiều sẽ  ảnh hưởng lớn đến chế  độ  chảy của màng. Khi đó, do lực ma sát giữa khí và lỏng sẽ có cản trở mạnh của dòng khí làm bề dày màng tăng lên, trở  lực dòng khí tăng. Tiếp tục tăng vận tốc dòng khí sẽ  dẫn đến cân bằng giữa trọng lực của màng  lỏng và lực ma sát và dẫn đến chế  độ  sặc (nhiều khi pha khí  chỉ  3-6m/s  đã  xảy  ra  sặc).  Khi  tốc  độ  vượt  qua  tốc  độ  sạch  sẽ  làm  kéo  chất lỏng theo pha khí ra ngoài.


Hình 1.8. Tháp màng
- Ưu và nhược điểm của tháp màng:
+ Ưu điểm
- Trở lực theo pha khí nhỏ.
- Có thể biết được bề mặt tiếp xúc pha (trong trường hợp chất lỏng chảy thành màng).
- Có thể thực hiện trao đổi nhiệt.
+ Nhược điểm
- Năng suất theo pha lỏng nhỏ.
- Cấu tạo phức tạp, khi vận hành dễ bị sặc.
+ Ứng dụng:
- Trong phòng thí nghiệm
- Trong trường hợp có năng suất thấp
- Trong những hệ thống cần trở lực thấp (hệ thống hút chân không,...)

Các yếu tố ảnh hưởng lên quá trình hấp thụ

         Nhiệt độ và áp suất là những yếu tố ảnh hưởng lên quá trình hấp thu. Cụ thể là chúng có ảnh hưởng lên trạng thái cân bằng và động lực của quá trình.
Ảnh hưởng của nhiệt độ
Khi các điều kiện khác không đổi nếu nhiệt độ tăng thì giá trị của hệ số Henry tăng, đường cân bằng sẽ chuyển dịch về trục tung. Giả sử đường làm việc PQ không đổi, nếu nhiệt độ tăng lên thì động lực truyền khối sẽ giảm, do đó tốc độ truyền khối sẽ giảm. Nếu tăng nhiệt độ lên một giới hạn nào đó thì không những động lực truyền khối giảm mà ngay cả quá trình củng không thực hiện được theo đường làm việc PQ cho trước. Mặt khác nhiệt độ tăng cũng có ảnh hưởng tốt vì làm độ nhớt của dung môi giảm (có lợi đối với trường hợp trở lực khuếch tán chủ yếu nằm trong pha lỏng).

Ảnh hưởng của áp suất
Nếu các điều kiện khác giữ nguyên mà chỉ tăng áp suất của hỗn hợp khí thì hệ số cân bằng sẽ giảm và do đó đường cân bằng sẽ dịch chuyển về phía trục hoành. Như vậy nếu tăng áp suất thì quá trình truyền khối sẽ tốt hơn vì động lực tốt hơn.
Tuy nhiên, việc tăng áp suất thường kèm theo sự tăng nhiệt độ. Mặt khác, sự tăng áp suất cũng gây khó khăn trong việc chế tạo và vận hành của tháp hấp thu.
 Các yếu tố khác
Tính chất của dung môi, loại thiết bị, cấu tạo thiết bị, độ chính xác của dụng cụ đo, chế độ vận hành tháp… đều có ảnh hưởng nhiều đến hiệu suất hấp thụ
(Tháng 06/2014)
Tài liệu tham khảo:
[1] Phạm Văn Bôn -Vũ Bá Minh - Hoàng Minh Nam,  Quá trình và thiết bị trong công nghệ hoá học, Tập 10, Nhà XB Đại Học Bách Khoa, TP. Hồ Chí Minh, 2000.
[2] Nguyễn Bin, Các Quá Trình, Thiết Bị Trong Công Nghệ Hóa Chất và Thực Phẩm, NXB khoa học và kĩ thuật 2008
 [3] Trần Ngọc Chấn, Ô nhiễm không khí và xử lý khí thải - Tập 1, 3,NXB Khoa học và Kỹ thuật.
[4]Trần Xoa - Nguyễn Trọng Khuông - Hồ Lê Viên, Sổ tay quá trình và thiết bị Công nghệ hóa chất tập 1, Nhà XB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2006
[5]Trần Xoa - Nguyễn Trọng Khuông - Phạm Xuân Toản, Sổ tay quá trình và thiết bị công nghệ hóa chất tập 2, Nhà XB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2006.
 

0 comments:

Post a Comment