1. Các Các polymer phân hủy sinh học được từ nông nghiệp (Biodegradable polymers from agricultural
1.1. Tinh bột dẻo nhiệt (TPS)
Polyme được sản xuất từ tinh bột
là những ví dụ cho các loại này.
Tinh bột là phương tiện chủ yếu của
tự nhiên để lưu trữ năng lượng và được tìm thấy ở dạng hạt, rễ và củ cũng như
trong thân cây, lá và quả của cây. Tinh bột là hoàn toàn phân hủy sinh học
trong các môi trường khác nhau và cho phép phát triển sản phẩm hoàn toàn phân hủy
cho nhu cầu thị trường cụ thể. Hai thành phần chính của tinh bột là polymer của
glucose: amylose (MW 105-106), một phân tử dài tuyến tính và amylopectin
(107-109 MW), một phân tử phân nhánh. Amylopectin là thành phần chính của tinh
bột và có thể được coi là một trong những đại phân tử tự nhiên lớn nhất. Hạt
tinh bột là bán tinh thể, có độ kết tinh khác nhau với 15-45% tùy thuộc vào nguồn.
“Native starch” thuật ngữ này chủ yếu được
sử dụng để chiết xuất tinh bột công nghiệp. Chúng không đắt (<0,5 Euro / kg)
và sản phẩm phong phú, có sẵn từ khoai tây, ngô, lúa mì và khoai mì.
Tinh bột là một vật liệu thân thiện
với môi trường với chi phí thấp. Ngô hiện nay là nguồn thông dụng nhất của tinh
bột cho nhựa sinh học. Tuy nhiên, khoai tây, lúa mì, lúa mạch, lúa mạch, yến mạch
cũng có thể được sử dụng như là nguồn tinh bột (Liu, 2006). Nếu không sự thay đổi,
Màng tinh bột có tính ưa nước và có độ bền cơ học tương đối kém. Chúng không thể
được sử dụng cho các ứng dụng bao bì. Độ dòn của nhựa sinh học tinh bột có thể
được làm giảm bằng cách sử dụng các chất hóa dẻo, bao gồm glycerol và các hợp
chất phân tử lượng thấp khác như polyhydroxy, polyethers,....
Tinh bột dẻo nhiệt -
Thermoplastic starch (TPS) hoặc tinh bột destructurised (DS) là một chất nhựa
nhiệt dẻo đồng nhất được sản xuất từ “native starch” bằng cách cho tinh bột
trong một dung môi (plasticiser – Chất hóa dẻo) và tiếp theo là 'ép đùn' - bao
gồm nhào trộn và sự làm nóng kết hợp. Do việc xử lí phá hủy cấu trúc
(destructurised), tinh bột trải qua một biến đổi cơ-nhiệt từ các hạt tinh bột bán tinh thể thành một vật liệu polyme vô định hình đồng
nhất.
Hình 1. Chế tạo TPS và sản phẩm
1.2. Các vật liệu từ Cellulose
Cellulose là nguồn polysaccharide
phổ biến nhất được sản xuất bởi thực vật. Cellulose gồm các mononer là glucose
tạo thành một polymer tuyến tính với chuỗi phân tử rất dài. Cellulose giòn,
không thể nấu chảy, và không hòa tan trong tất cả các dung môi hữu cơ (Chandra
et al., 2007). Những đặc tính này làm cellulose không thể gia công mà không có
sự cải tạo. Màng Cellophane được sản xuất bởi biến đổi hóa học của cellulose để
làm cho nó hòa tan, và sau đó được phục hồi lại sau khi nó được định hình thành
màng.
- Cellophane có tính trong suốt, độ bóng bề mặt cao.
- Tính bền cơ học kém như lực xé, lực kéo, có thể xé rách dễ dàng khi có một vết cắt..
- Không có độ cứng vững.
- Không thể hàn dán nhiệt, cellophane phủ nitrocellulose nhằm mực đích hàn dán nhiệt khi ghép mí và tăng tính chống thám khí
Màng
cellophane có tính cứng, dòn có thể kéo căng và cuộn một cách dễ dàng trên hệ
thống thiết bị tạo màng , khá bền cơ nhưng nếu có vết rách, thủng thì rất dễ
dàng xé rách.
Hình 2. Màng Cellophane
Một thực tế phổ biến khác, là sử
dụng các dẫn xuất cellulose (chất dẻo cellulose) để cải thiện các tính chất.
Các dẫn xuất, chẳng hạn như ether, ester
and acetal được sản xuất bởi phản ứng của một hoặc nhiều nhóm hydroxyl
trong các đơn vị lặp đi lặp lại, và có thể tạo màng tốt. Chất dẻo cellulose được
sử dụng cho gói màng, và cho rót khuôn hoặc thổi khuôn chứa. Tenite® (Eastman,
USA), Bioceta® (Mazzucchelli, Italy), Fasal® (IFA, Áo), và Natureflex® (UCB, Đức)
là tên thương mại của một số polyme dựa trên cellulose.
1.3. Chitin/chitosan
Lâu nay, Chitin là một
polysaccharid xuất hiện nhiều trong thiên nhiên, chỉ sau cellulose. Chitin có mặt
trong vỏ các loài giáp xác, màng tế bào nấm thuộc họ Zygemycetes có trong sinh
khối nấm mốc, và một vài loại tảo . Còn chitosan chính là sản phẩm biến tính của
chitin, là một chất rắn, xốp, nhẹ, hình vảy, có thể xay nhỏ theo các kích cỡ
khác nhau. Có mầu trắng hay vàng nhạt, không mùi vị, không tan trong nước, dung
dịch kiềm và a-xít đậm đặc nhưng tan trong a-xít loãng (pH =6), tạo dung dịch
keo trong, có khả năng tạo màng tốt, nhiệt độ nóng chảy 309-311oC, trọng lượng
phân tử trung bình: 10.000-500.000 dalton tùy loại. Chính nhờ vào những đặc
tính sinh học này mà chitosan được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực y học, xử
lý nước, công nghiệp nhuộm, giấy, mỹ phẩm, thực phẩm... Chitosan có trong vỏ
tôm. Ở nước ta, sản phẩm tôm đông lạnh chiếm sản lượng lớn nhất trong các sản
phẩm đông lạnh. Chính vì vậy, vỏ tôm phế liệu là nguồn nguyên liệu tự nhiên rất
dồi dào, rẻ tiền, có sẵn quanh năm, nên rất thuận tiện cho việc cung cấp chitin
và chitosan.
Các nhà khoa học Bùi Văn Miên và
Nguyễn Anh Trinh, khoa CNTP của Trường ĐHNL TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tạo ra
một lớp màng vỏ bọc chitosan, đây được xem như là một loại bao bì có tính năng
bảo vệ và có thể sử dụng như thực phẩm mà không hề ảnh hưởng đến môi trường
chung quanh. Đặc biệt sản phẩm có thể sử dụng để bọc các loại thực phẩm tươi sống
giàu đạm, dễ hư hỏng như cá, thịt... Quy trình tạo chitosan từ... vỏ tôm, dựa
trên nguyên tắc loại bỏ muối canxi, protein và các tạp chất khác. Quy trình tóm
lược như sau: Vỏ tôm xử lý vỏ tôm sạch loại khoáng và tách protein chitin
deacetyl hóa chitosan. Từ nguồn chitosan thu được này, các tác giả tiếp tục
nghiên cứu để tạo ra lớp vỏ màng bọc chitosan bằng cách sử dụng các chất phụ
gia khác nhau (nhưng có cùng bản chất hóa học), thường là các chất hóa dẻo được
sử dụng nhằm làm tăng tính dẻo dai và đàn hồi của màng. Thí dụ như phụ gia:
ethylen glycol (EG), polyethylen glycol (PEG), glycerin...
Hình 3. Sơ đồ sản xuất chitin và
Chitosan
Đặc tính của chitosan:
- Là
polysacharide có đạm không độc hại, có khối lượng phân tử lớn.
- Là
một chất rắn, xốp, nhẹ, hình vảy, có thể xay nhỏ theo các kích cỡ khác
nhau.
- Chitosan
có màu trắng hay vàng nhạt, không mùi vị.
- Không
tan trong nước, dung dịch kiềm và axit đậm đặc
nhưng tan trong
axit loãng (pH6), tạo dung dịch
keo trong, có khả năng tạo màng tốt, nhiệt
độ nóng chảy 309- 311o C.
Cách tạo màng vỏ bọc như sau:
Chitosan thu được từ vỏ tôm đem nghiền nhỏ bằng máy để nhằm mục đích gia tăng bề
mặt tiếp xúc. Pha dung dịch Chitosin 3% trong dung dịch axit acetic 1,5%. Sau
đó bổ sung chất phụ gia PEG - EG 10% (tỷ lệ 1:1) và trộn đều để yên một lúc để
loại bọt khí. Sau đó đem dung dịch đã pha quét đều lên một ống inox đã được
nâng nhiệt 64- 65oC (ống inox được nâng nhiệt bằng hơi nước nóng đun sôi). Để
khô vỏ trong vòng 35 phút rồi tách vỏ. Lúc này ta được vỏ bóng có mầu vàng,
ngà, không mùi vị, đó là lớp màng vỏ bọc chitosan có những tính năng mới ưu việt.
Từ trước đến nay, việc bảo quản
các loại thực phẩm tươi sống giàu đạm, dễ hư hỏng như thịt, cá... trong điều kiện
khí hậu nóng ẩm của nước ta là một trong những vấn đề đã và đang được các nhà sản
xuất, chế biến và các nhà khoa học quan tâm, nên sau khi vỏ bọc chitosan từ vỏ
tôm được hoàn thành, các nhà nghiên cứu đã nghĩ ngay đến việc dùng màng bọc
chitosan từ vỏ tôm này để làm vỏ bọc xúc xích. Do vậy những vỏ bọc đầu tiên ra
đời được chế tạo để nhốt xúc xích, những sản phẩm đầu tiên có chiều dài 460mm,
đường kính 25mm. Các vỏ bọc này khi cho hỗn hợp nguyên liệu xúc xích vào thì
dùng máy nhồi quay tay. Khi nhồi hỗn hợp nguyên liệu vào vỏ bọc xong thì buộc lại
ở hai đầu. Do trong thành phần có những chất phụ gia nên lớp chitosan này đã kết
dính các mao mạch của vỏ tôm lại với nhau, với áp lực của máy nhồi tay, vỏ bọc
không bị nứt, mà tiếp tục bám sát vào nguyên liệu bên trong tạo thành những
hình xúc xích xinh xắn.
Ngoài việc giúp cho sản phẩm xúc
xích có hình dáng đẹp, lớp vỏ màng chitosan này còn có tác dụng đặc biệt là
không làm mất mầu và mùi đặc trưng của hỗn hợp nguyên liệu xúc xích.
Từ thành công này, các nhà khoa học
tiếp tục nghĩ tới việc sử dụng vỏ bọc chitosan để bảo quản thủy sản tươi và
khô. Đối với cá tươi các tác giả đã tiến hành xử lý lấy ruột, mang (để nguyên
con hoặc filê...) rồi rửa. Sau đó, nhúng cá đã xử lý vào dung dịch chitosan được
pha sẵn ở các nồng độ 0,5%, 1%, 15%, 2%, 2,5% tùy theo độ lớn của từng loại cá.
Sau đó để cá ráo trong tủ mát khoảng 10 phút để giúp màng chitosan được định
hình rồi cho vào tủ cấp đông... Sau 18 tiếng đồng hồ có thể tiến hành rã đông.
Cá là nguyên liệu có cơ lỏng lẻo, nhiều nước. Trong quá trình cấp đông chậm
(nhiệt độ -25oC) sẽ xảy ra hiện tượng mất nước, làm cho trọng lượng của cá giảm.
Mặt khác, do môi trường trong tủ cấp đông là không khí lạnh và khô nên nước khuếch
tán từ cơ thịt cá ra bề mặt của cá và từ bề mặt của cá ra môi trường bên ngoài
rất lớn. Tuy nhiên khi sử dụng màng bao chitosan từ vỏ tôm thì khắc phục được
hiện tượng này, chứng tỏ việc sử dụng màng bao chitosan bao phủ bề mặt của cá
là rất hiệu quả. Đặc biệt khi cho cá vào nước và nấu chín, dung dịch chitosan
không làm thay đổi mùi vị của sản phẩm. Còn đối với thủy sản khô như cá khô và
cá mực... thì tiến hành pha dung dịch chitosan 2% trong dung dịch axit acetic
1,5%. Sau đó nhúng cá và mực vào dung dịch được pha, làm khô bằng cách sấy ở
nhiệt độ 30oC có quạt gió. Sản phẩm thu được có thể bảo quản tốt ở nhiệt độ
bình thường... Tùy theo độ ẩm của cá và mực mà sản phẩm có thời gian bảo quản
khác nhau, độ ẩm càng thấp thời gian bảo quản càng dài. Với độ ẩm 26-30%, cá
khô bảo quản được 83 ngày, mực khô giữ được 85 ngày còn ở độ ẩm 41 - 45% thì cá
khô giữ được 17 ngày, mực khô được 19 ngày...
Nghiên cứu của các nhà khoa học
khoa CNTP của Trường ĐHNL TP Hồ Chí Minh đã mở ra một hướng đi mới trong việc tận
dụng các loại phế phẩm rẻ tiền để bảo quản các loại thủy sản ở nước ta. Thành
công này còn góp phần rất lớn trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường
do các chất thải từ vỏ tôm gây ra...
Trong thời gian gần đây các nhà
khoa học của Đại học Harvard cũng chế tạo thành công các loại bao bì từ vỏ tôm
Hình 4. Bao bì từ Chitosan do Đại
học Harvard chế tạo
2. Các polymer phân hủy sinh học được tổng hợp từ các moomer sinh học (Biodegradable polymers synthesized from bio-derived monomers)
Polylacticacid (PLA)
Kết quả đạt được của công nghệ
sinh học và nền nông nghiệp hiện đại giúp thay thế các plastic, các loại vật liệu
thay thế gần đây được sản xuất theo ba hướng:
- Chuyển đổi đường có nguồn gốc
thực vật thành nhựa
- Sản xuất plastic bên trong vi
sinh vật
- Phát triển các loại nhựa từ băp
hoặc từ các sản phẩm nông nghiệp khác
Cargill Dow có nhân rộng quá
trình chuyển hoá đường thành axit lactic và
sau đó polymer hóa (polymerises) nó thành acid polylactic , NatureWorks
TM PLA. Acid lactic có thể được sản xuất tổng hợp từ hydrogen cyanide và
acetaldehyde hoặc một cách tự nhiên từ quá trình lên men của đường, bởi
Lactobacillus.Sự lên men là con đường tốt nhất để các có đồng phân quang học cần
cho polyme hóa. Sự trùng ngưng (Condensation polymesation) của acid lactic tạo
ra các polymer phân tử lượng thấp. Trọng lượng phân tử cao hơn thu được bằng
cách trùng ngưng lactide, một monomer trung gian. Khi lactides triệt quang
(racemic) được sử dụng, kết quả tạo thành là một polymer vô định hình, với một
nhiệt độ hóa mềm khoảng 60ºC, không thích hợp để đóng gói nên cần thêm các chất
bổ sung.
Hình 5. Nguyên tắc sản xuất PLA từ
acid lacic
Người ta sản xuất PLA dựa vào nguồn
nguyên liệu từ tinh bột bắp. Bắp được
xay và cán. Sau đó sẽ được đường hóa thành các dextrin. Các dextrin này sẽ được
chuyển thành acid lactic qua quá trình lên men. Và rồi sẽ được cô đặc, lúc này
2 phân tử lactic sẽ kết hợp lại thành cấu trúc vòng gọi là lactid. Hợp chất
lactid này sẽ được làm sạch qua quá
trình chưng cất. Sau dó chúng sẽ được trùng hợp tạo chuỗi polyme mạch dài. Để
có nhiều loại
thì ta có thể thay đổi phân tử lượng
và độ trong. Bằng cách thêm vào nhiều chất bổ sung ta sẽ có vật liệu PLA
Hình 6. Sơ đồ sản xuất PLA
PLA là polymer có tính chất rất
giống với polyolefines và có thể dễ dàng chuyển đổi thành sản phẩm “nhựa” bằng
các quá trình cơ bản như rót khuôn và ép đùn. Đây là một tiềm năng để sử dụng
chúng trong đóng gói thực phẩm cũng như là một ứng dụng hợp vệ sinh
Hiện nay, một trở ngại chính là mức
giá cao của các nguyên liệu và thiếu một cơ sở hạ tầng lên men tại các thị trường
châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Thị trường toàn cầu hiện nay cho nhu cầu axit lactic
là 100.000 tấn mỗi năm, trong đó hơn 75% được sử dụng trong ngành công nghiệp
thực phẩm. Có lẽ những cơ hội lớn nhất cho PLA nằm trong sợi và phim ảnh. Ví dụ,
nhu cầu trên toàn thế giới với các loại vải không dệt cho ứng dụng vệ sinh là
400.000 tấn mỗi năm. Thị trường quan trọng khác có thể được tìm thấy trong các
ngành công nghiệp nông nghiệp như bao gói nông sản và túi ủ.
Hình 7. Sự phân hủy PLA theo thời
gian
Sự lựa chọn polymer cho hầu hết
các ứng dụng đóng gói có thể là 90% L-lactide và 10% racemic D, L-lactide. Vật
liệu này được báo cáo là có thể dễ dàng được polyme hoá, dễ dàng định hình và dễ
nóng chảy. Nhiệt độ hóa mềm của nó là 60ºC và nhiệt độ nóng chảy của nó là
155ºC. Độ bền kéo của nó được báo cáo là 80-110Mpa với độ giãn dài tại điểm gãy
lên đến 30%. Màng polylactide được báo cáo là rất giống nhau về hình dạng và
tính chất với polystyrene.
Do đó, polyme PLA được thiết kế
dành cho thực phẩm. Cargill Dow, các nhà sản xuất lớn nhất của polyme PLA, đã xác
nhận rằng của họ đạt được GRAS (Generally Recognised As Safe), cho phép tiếp
xúc trực tiếp với thực phẩm chứa nước, axit và các chất béo dưới 60ºC và đồ uống
dung dịch có tính axit và bảo quản dưới 90ºC .
Hình 8. Một số ứng dụng của PLA
3. Các polymer phân hủy sinh học được sản xuất trực tiếp từ Vi sinh vật (Biodegradable polymers produced directly by microorganisms)
Poly(hydroxyalkanote)
Hình 9. Công thức phân tử của
PHAs, PHB, PHV
Poly (β-hydroxyalcanoate)s (PHAs)
là polyeste tự nhiên được tạo ra bởi vi khuẩn từ đường hoặc chất béo. Chúng thực
sự "lớn" bên trong các cấu trúc tế bào và sau đó thu nhận. Việc sử dụng
các PHAs hiện đang hạn chế do chi phí sản xuất cao. Chúng có các tính năng
tương tự như nhựa thông thường, nhưng là polyme phân hủy sinh học hoàn toàn.
Như vậy, PHAs có tiềm năng làm nguyên liệu thay thế cho nhựa phân hủy sinh học
với số lượng lớn hàng hóa (Foster et
al., 2001). Một trong nhóm PHAs, polyhydroxybutyrate (PHB), là nhựa sinh học phổ
biến nhất là sản xuất và nghiên cứu. PHB có sức đề bền nhiệt và chống nước cao.
Hỗn hợp của PHB với các polyme khác có thể cải thiện tính chất của nó. Ví dụ,
poly(ethylene oxide), poly(vinyl butyral), poly(vinyl acetate), poly (vinylphenol),
cellulose acetate butyrate, chitin, chitosan và đã được nghiên cứu như vật liệu
pha trộn với PHB. Một phương pháp phổ biến để cải thiện tính gia công của PHB
là làm cho các vi sinh vật tạo ra một co-polymer thay vì homopolymer.
Polyhydroxybutyrate-valerate,
PHBV, là phổ biến nhất trong số này.
PHA là một vật liệu polyme khác
có nhiều hứa hẹn. Polyme này đang được
nghiên cứu để thay thế cho bao bì plastic.
Các nhà sinh học đã biết đến sự tồn tại của PHA từ năm 1925 trong tế bào
vi khuẩn. Nhiều loại PHA đã được tổng hợp
từ các nguồn cacbon, vi sinh vật
hữu cơ khác nhau và có qua quá trình gia công.
Có 2 pp để tổng hợp nên PHA :
- Phương pháp lên men gồm : trồng
các cây trồng như bắp, rồi thu họach, tách chiết glucose từ cây trồng sau đó
lên men đường trong những tế bào chứa
PHA, rửa và xoáy đảo tế bào để giải phóng PHA sau cùng là cô đặc và phơi khô trong khuôn.
- Quá trình tổng hợp dựa vào sự
phát triển PHA trong tế bào cây trồng là
một kỹ thuật mà đang được theo đuổi. Quá trình nàythì giống với quá
trình đã mô tả ở trên nhưng bỏqua giai đoạn lên men. Người ta sử dụng một lượng lớn dung môi để trích ly nhựa từ cây trồng.
Sau đó phải tìm cách loại dung môi đi. Do đó rất tốn kém năng lượng.
Một ưu điểm của PHA so với PLA là
khả năng tự phân hủy của nó rất là cao và dễ tổng hợp. Khi được đặt vào môi trường
sinh vật tự nhiên thì nó sẽ tự phân hủy thành CO2 và nước.
Hình 10. Sản xuất PHAs
Tính chất của PHAs
• Vật
liệu dẻo nhiệt tốt
• Dãi
nhiệt rộng
• Ít
kết tinh
• Bền
với tia UV
• Ít
thấm nước
• Cải
thiện độ bền và dẻo dai bằng cách tăng % muối valerate trong vật liệu
• PHAs
tan trong dung môi halogen như chloroform, dichloromethane hoặc dichloroethane
• PHP
có tính chất khá tương tự polypropylene
Hình 11. Một số ứng dụng của bao
bì PHA
4. Các polymer phân hủy sinh học tổng hợp (Synthetic biodegradable polymers)
Ngoài các sản phẩm nhựa phân hủy
sinh học dựa trên chất nền tự nhiên, có nhựa phân hủy sinh học tổng hợp được sản
xuất từ các nguyên liệu hóa dầu mà có thể chịu được sự thủy phân do tác động của
vi khuẩn.
Polycaprolactone (PCL) là một
polyester béo bán tinh thể trong đó có điểm nóng chảy tương đối thấp (600C). Nó
là hoàn toàn phân hủy sinh học ở biển, nước thải, bùn, đất, hệ sinh thái và
phân compost (Khatiwala et al. 2008).
Polyvinyl alcohol (PVOH) là một polymer phân hủy
sinh học tổng hợp mà hoàn toàn hòa tan trong nước. Sự kết hợp của tinh bột và
PVOH như một loại vật liệu bao bì phân hủy sinh học đã được nghiên cứu từ năm
1970. Hiện nay, nó được sử dụng để sản xuất chất độn lỏng có nguồn gốctinh bột
như là một thay thế cho PS. Các loại polyme phân hủy sinh học tổng hợp bao gồm
các polyeste, polyamit, polyurethan và polyureas, poly (amide-enamine) s,
polyanhydrides (Chandra et al, 1998;. Nair & Laurencin, 2007). Polyme tổng
hợp có thể xử lí cho một loạt các tính chất để đạt được thuộc tính cơ học cần
thiết (linh hoạt, dẻo dai, vv) cũng như mức độ suy phân huy. Hiện nay, các ứng
dụng polyme phân hủy sinh học tổng hợp đã đạt được sự chú ý nhiều hơn trong
lĩnh vực y sinh học như giàn giáo công nghệ mô, thiết bị cố định chỉnh hình,
vv… (Gunatillake tại al., 2006).
Mater – Bi
Mater –Bi là một chất dẻo sinh học
được tạo thành từ tinh bột và một chất dẻo tử dầu mỏ (polycarrolactan). Mater –
Bi thường được dùng làm ly muỗng dùng một lần.
Hình 12. Một số ứng dụng của
Mater-Bi
Một số tính chất của Mater-Bi;
• Có
khả năng tự phân hủy và có thể sử dụng làm phân bón.
• Có
khả năng sử dụng tiện lợi như các loại bao bì plastic khác.
• Có
thể tạo màu bằng các chất màu tự nhiên.
• Có
khả năng tạo bao bì ghép lớp cùng với các loại vật liệu khác như giấy, giấy
bìa, giấy gợn sóng…
• Có
thể tiệt trùng được bằng tia gamma.
• Có
thể được dán bằng nhiều loại kết dính.
(Tháng 11 năm 2014)
Tài liệu tham khảo:
[1] Raija Ahvenainen, Novel food packaging
techniques, Woodhead Publishing Limited Abington Hall, Abington, 2003
[2] Stephanie Clark và cộng sự, Food processing:
Principles and Applications second edition, John Wiley & Sons, Ltd, 2014
[3] Đống Thị Anh Đào, Giáo trình Kỹ thuật bao bì
thực phẩm, NXB Đại học quốc gia TP.HCM, 2012
[4] Malathi A.N, Biodegradable films for food Packaging
[5] Các website
http://cfpub.epa.gov/ncer_abstracts/index.cfm/fuseaction/display.abstractDetail/abstract/967/report/2000
http://www.biodegradablebags.net.au/pages/product-range-biodegradable-compostable-food-packaging.html
http://www.packaging-gateway.com/features/featureinside-packaging-magazine-issue-3/featureinside-packaging-magazine-issue-3-4.html
0 comments:
Post a Comment